Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trải qua những biến đổi sâu sắc, với sự dịch chuyển chuỗi cung ứng,tái phân bổ dòng vốn đầu tư và sự phát triển nhanh của các công nghệ mới, yêu cầu cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh ngày càng trở nên cấp thiết. Đối với Việt Nam, đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo động lực cho tăng trưởng trong giai đoạn tới.
Thực tế cho thấy, nhiều địa phương đang tìm kiếm động lực phát triển mới, cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng vào một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, trong khi các nhà đầu tư quốc tế theo dõi sát sao tiến trình cải cách thể chế của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi, vừa được Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, được đánh giá là bước đi có ý nghĩa chiến lược, nhằm hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư theo hướng minh bạch, thông thoáng và phù hợp với yêu cầu phát triển.
Những vướng mắc từ thực tiễn
Nhìn lại thời gian qua, có thể thấy thủ tục đầu tư còn tồn tại nhiều điểm nghẽn. Theo phản ánh của các địa phương và doanh nghiệp, thời gian hoàn tất thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tưđ ối với nhiều dự án vẫn kéo dài, trong khi hệ thống pháp luật liên quan còn thiếu đồng bộ. Báo cáo Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nhiều năm liền cho thấy thủ tục hành chính và sự chồng chéo pháp luật luôn nằm trong nhóm những rào cản lớn đối với môi trường kinh doanh.
Bên cạnh đó, danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện vẫn còn phức tạp, bao gồm cả những lĩnh vực không còn cần thiết phải quản lý chặt chẽ. Điều này làm gia tăng chi phí tuân thủ và ảnh hưởng đến khả năng triển khai các mô hình kinh doanh mới. Ngoài ra, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu về thu hút các ngành công nghệ cao, khung chính sách hiện hành được cho là chưa đủ linh hoạt để đáp ứng yêu cầu về tốc độ và mức độ ưu đãi của các lĩnh vực này.
Đáng chú ý, sự chồng chéo giữa Luật Đầu tư với các luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng cháy, chữa cháy… cũng khiến nhiều dự án bị kéo dài tiến độ. Những vướng mắc này không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp hay từng địa phương, mà còn tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Những điểm đổi mới trong Luật Đầu tư sửa đổi
Dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi đượ cxây dựng trên tinh thần tái cấu trúc quy trình đầu tư, chuyển trọng tâm từ kiểm soát đầu vào sang quản trị rủi ro và nâng cao hiệu quả.
Một trong những nội dung quan trọng là thu hẹp phạm vi dự án phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư, chỉ giữ lại những dự án có tác động lớn đến đất đai, môi trường, quốc phòng – an ninh.Các dự án thông thường trong lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ được chuyển sang cơ chế đăng ký và hậu kiểm, qua đó rút ngắn thời gian chuẩn bị và giảm độ trễ trong triển khai.
Cùng với đó, dự thảo luật bãi bỏ và thu hẹp nhiều ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, nhằm mở rộng không gian tự do kinh doanh, giảm chi phí không chính thức và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đặc biệt, lần đầu tiên các ngành công nghệ cao, kinh tế số và kinh tế xanh được xác lập là trung tâm của chính sách ưu đãi đầu tư. Điều này thể hiện rõ định hướng thu hút đầu tư có chọn lọc,phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn.
Bên cạnh việc cắt giảm thủ tục, dựt hảo luật cũng tăng cường kỷ luật thực thi, với các quy định liên quan đến tiến độ, gia hạn và chuyển nhượng dự án, nhằm sàng lọc nhà đầu tư thiếu năng lực và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển mới
Việc sớm hoàn thiện và ban hành Luật Đầu tư sửa đổi được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những vướng mắc hiện nay, đồng thời tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực cho giai đoạn phát triển 2025–2035. Khi thủ tục được tinh giản và khung pháp lý trở nên rõ ràng, nhiều dự án có thể được triển khai nhanh hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
Luật Đầu tư sửa đổi không chỉ là sự điều chỉnh về kỹ thuật pháp lý, mà còn là bước đi thể hiện quyết tâm cải cách của Nhà nước, hướng tới xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, ổn định và hiệu quả, qua đó mở đường cho một chu kỳ tăng trưởng mới của nền kinh tế.